Công giáo, Chính thống giáo và Anh giáo
Số lượng xem: 514

Kitô Giáo (hay còn gọi là Cơ Đốc Giáo) cùng Do Thái giáo và Hồi Giáo có chung một tổ phụ là Abraham hay còn được ghi chép là các tôn giáo có cùng khởi nguồn từ Abraham.

 

 

Trong đó, Kitô Giáo tôn thờ Chúa Kitô (Christianity) nhưng sau đó, từ nguồn cội này chia làm ba nhánh Kitô Giáo là Công Giáo, Chính Thống và Tin Lành.

Theo dòng thời gian, đã có những biến cố gây ra tình trạng rạn nứt hay ly giáo (Schisms) hoặc những cải cách (Reformations) đáng tiếc xảy ra khiến Kitô Giáo bị phân chia thành 3 Nhánh chính trên. Ngoài ra, còn một nhánh Kitô Giáo nữa là Anh Giáo (Anglican Communion) do vua Henri VIII ( 1491-1547 ) của nước Anh chủ xướng năm 1534 để lập một Giáo Hội riêng cho nước Anh, tách khỏi Rôma chỉ vì Tòa Thánh Rôma (Đức Giáo Hoàng Clement VII) không chấp nhận cho nhà vua ly dị để lấy vợ khác.

 

 

Cho đến nay, các nhóm ly khai trên vẫn chưa hiệp thông được với Giáo Hội Công Giáo Rôma vì còn nhiều trở ngại chưa vượt qua được và hiện nay mỗi nhánh lại áp dụng các tín điều, cũng như mục vụ khác nhau. Và để tìm hiểu những khác nhau này, chúng ta cùng tham khảo sự khác nhau giữa Công Giáo, Chính Thống Giáo và Anh Giáo.

Chính Thống Giáo “Orthodoxy”, theo ngữ căn (Etymology) Hy Lạp “Orthos doxa”, có nghĩa là “ca ngợi đúng” (Right-praise), “tin tưởng đúng” (Right belief). Danh xưng này được dùng trước tiên để chỉ lập trường của các Giáo Đoàn Kitô đã tham dự các Công Đồng Đại Kết (Ecumenical Councils) Nicêa I (325) Ephêsô (431) và nhất là Chalcedon (451) trong đó họ đã đồng thanh chấp thuận và đề cao những giáo lý được coi là chân chính (Sound doctrines), tinh tuyền của Kitô Gíáo để chống lại những gì bị coi là tà thuyết hay lạc giáo (Heresy). Do đó, trong bối cảnh này, từ ngữ “Orthodoxy” được dùng để đối nghịch với từ ngữ “Heresy” có nghĩa là tà thuyết hay lạc giáo.

 

 

Nhưng sau biến cố năm 1054 khi hai Giáo Hội Kitô Giáo Hy Lạp ở Constantinople (tượng trưng cho Đông Phương) và Giáo Hội Công Giáo Rôma (Tây Phương) đã xung đột và ra vạ tuyệt thông cho nhau (Anthemas = excommunications) ngày 16 tháng 7 năm 1054 giữa Michael Cerularius, Thượng Phụ Constantinople và Đức cố Giáo Hoàng Leo IX vì có những bất đồng lớn về tín lý, thần học và quyền bính, thì danh xưng “Chính Thống” (Orthodoxy) lại được dùng để chỉ Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople đã tách ra khỏi hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo Rôma. Sau này, Giáo Hội “Chính Thống” Hy Lạp ở Constantinople đã lan ra các quốc gia trong vùng như Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Albania, Estonia, Cyprus, Finland, Latvia, Lithuania, Rumania, Bulgaria, Serbia, Ukraine… Vì thế, ở mỗi quốc gia này cũng có Giáo Hội Chính Thống nhưng độc lập với nhau về mọi phương diện. Nghĩa là không có ai là người lãnh đạo chung của các Giáo Hội này, mặc dù họ có tên gọi chung là các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương (Eastern Orthodox Churches) tách khỏi khỏi Giáo Hội Công Giáo Rôma (Tây Phương).

 

 

Tuy nhiên, hiện nay Thượng Phụ (Patriarch) Giáo Hội Chính Thống Thổ Nhĩ Kỳ ở Istanbul được coi là Thượng Phụ Đại Kết (Ecumenical Patriarch) của các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương. Cách nay 5 năm Đức Thánh Cha Benedict 16 (đã về hưu năm 2012) đã sang thăm Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Chính Thống Thổ để tỏ thiện chí muốn đối thoại, đưa đến hiệp thông giữa hai Giáo Hội anh em. Riêng Giáo Hội Chính Thống Nga, cho đến nay, vẫn chưa tỏ thiện chí muốn xích gần lại với Giáo Hội Công Giáo Rôma, vì họ cho rằng Công Giáo muốn “lôi kéo” tín đồ Chính Thống Nga vào Công Giáo sau khi Liên Xô tan rã, tạo điều kiện thuận lợi cho Giáo Hội Chính Thống Nga hành Đạo. Dầu vậy, một biến cố mới xẩy ra trong năm qua (2016) là Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp Thượng Phụ Giáo Hội Chính Thống Nga tại Mexico, nhưng kết quả của cuộc gặp gỡ lịch sử này giữa hai vị lãnh đạo Công Giáo và Chính Thống Nga không được công bố sau đó. Nhưng đây là một dấu chỉ tích cực giữa hai Giáo Hội anh em.

 

 

Trước khi xảy ra cuộc ly giáo năm 1054, hai nhánh Kitô giáo lớn ở Đông và Tây phương (The Greek Church and the Holy See = Rôma) nói trên vẫn hiệp thông trọn vẹn với nhau về mọi phương diện vì cả hai Giáo Hội anh em này đều là kết quả truyền giáo ban đầu của các Thánh Tông Đồ Phêrô và Anrê. Lịch sử truyền giáo cho biết là Thánh Phêrô (Peter) đã rao giảng Tin Mừng ở vùng đất nay là lãnh địa của Giáo Hội Công Giáo Rôma, trong khi em ngài, Thánh Anrê (Andrew) sang phía Đông để rao giảng trước hết ở Hy Lạp và sau đó phần đất nay là Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Như thế, cả hai Giáo Hội Kitô Giáo Đông Phương Constantinople và Tây Phương Rôma đều có nguồn gốc Tông Đồ thuần túy (Apostolic succession).

 

 

Những điểm gây bất đồng khiến đi đến ly giáo (schism) giữa Đông Tây:

Giáo Hội Chính Thống Đông Phương – tiêu biểu ban đầu là Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople,  đã bất đồng với Giáo Hội Công Giáo Rôma về từ ngữ “Filioque” (và Con) thêm vào trong Kinh Tin Kính Nicêa tuyên xưng “Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha, và Chúa Con mà ra”.

Giáo Hội Chính Thống Đông Phương cũng không công nhận các tín điều về Đức Mẹ Vô Nhiễm Thai (Immaculate Conception) và Lên Trời cả hồn xác (Assumption) mặc dù họ vẫn tôn kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos). Sở dĩ thế, vì họ không công nhận vai trò lãnh đạo Giáo Hội của Đức Giáo Hoàng, nên đã bác bỏ mọi tín điều được các Đức Giáo Hoàng công bố với ơn bất khả ngộ (Infallibility) mà Công Đồng Vaticanô I (1870) đã nhìn nhận.

Chính vì họ không công nhận quyền và vai trò lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ của Đức Giáo Hoàng Rôma, nên đây là trở ngại lớn nhất cho sự hiệp nhất (unity) giữa hai Giáo Hội Chính Thống và Công Giáo cho đến nay, mặc dù hai bên đã tha vạ tuyệt thông cho nhau sau cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Constantinople khi đó là Athenagoras I năm 1966.

Giáo Hội Chính Thống có đủ bảy Bí Tích hữu hiệu như Công Giáo. Tuy nhiên, với Bí Tích Rửa Tội thì họ dùng nghi thức dìm xuống nước (Immersion) 3 lần để nhấn mạnh ý nghĩa tái sinh vào đời sống mới, trong khi Giáo Hội Công Giáo chỉ dùng nước đổ trên đầu hay trán của người được rửa tội để vừa chỉ sự tẩy sạch tội nguyên tổ và các tội cá nhân (đối với người tân tòng) và tái sinh vào sự sống mới, mặc lấy Chúa Kitô.

 

 

Chính vì Giáo Hội Chính Thống có đủ các Bí Tích hữu hiệu như Công Giáo, nên Giáo Dân Công Giáo được phép tham dự Thánh Lễ và lãnh các Bí Tích Hòa Giải và Xức Dầu của Chính Thống nếu không tìm được Nhà Thờ Công Giáo hay Linh Mục Công Giáo khi cần.

Giáo Hội Chính Thống dùng bánh có men (Leavened bread) và ngôn ngữ Hy Lạp khi cử hành Phung Vụ, trong khi Giáo Hội Công Giáo dùng bánh không men (Unleavened bread) và tiếng Latinh trong Phụng Vụ Thánh trước Công Đồng Vaticanô II, và nay là các ngôn ngữ của mọi tín hữu thuộc mọi nền văn hóa, chủng tộc khác nhau, trong đó có tiếng Việt Nam.

Các Giáo Hội Chính Thống cho phép các Phó Tế và Linh Mục được kết hôn trừ Giám Mục, trong khi kỷ luật độc thân (Celibacy) lại được áp dụng cho mọi cấp bậc trong hàng Giáo Sĩ và Tu Sĩ Công Giáo, trừ Phó Tế Vĩnh Viễn (Permanent deacons).

Đó là những khác biệt căn bản giữa Giáo Hội Chính Thống Đông Phương và Giáo Hội Công Giáo Rôma cho đến nay.

Tuy nhiên, dù có những khác biệt và khó khăn trên đây, Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống Đông Phương đều rất gần nhau về nguồn gốc Tông Đồ và về nền tảng Đức Tin, Giáo Lý, Bí Tích và Kinh thánh. Vì thế, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã dạy rằng: “Đối với các Giáo Hội Chính Thống, sự hiệp thông này sâu xa đến nỗi “chỉ còn thiếu một chút là đạt được mức đầy đủ để có thể cho phép cử hành chung phép Thánh Thể của Chúa Kitô” (x. SGL GHCG, số 838).

 

 

Anh Giáo cũng giống như các nhóm Tin Lành đều không có các Bí Tích quan trọng như Thêm Sức, Thánh Thể, Hòa Giải, Xức Dầu bệnh nhân và Truyền Chức Thánh vì họ không có nguồn gốc Tông Đồ (Apostolic succession). Và quan trọng hơn nữa, người sáng lập của họ là người thường (Martin Luther, John Calvin, Henry XIII) chứ không phải là chính Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã lập Giáo Hội của Chúa trên Đá Tảng Phêrô (Mt 16, 18-19) và “Giáo Hội này tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo do Đấng kế vị Phêrô và các Giám Mục hiệp thông với ngài điều khiển” như Thánh Công Đồng Vaticanô II đã nhìn nhận (x. LG số 8). Cho nên các nhánh Tin Lành và Anh Giáo đều không có chức Linh Mục và Giám Mục hữu hiệu để cử hành các Bí Tích trên.

Cũng vậy, Anh Giáo chỉ có phép rửa (Baptism) như Tin Lành. Nhưng nếu nhóm nào không rửa tội với nước và công thức Chúa Ba Ngôi (The Trinitarian Formula) như nhóm Bahai Hullah, thì không thành sự (Invalidly).

Trên đây là những khác biệt căn bản giữa Công Giáo, Chính Thống Giáo và Anh Giáo. Tuy nhiên, Giáo Hội Công Giáo Rôma vẫn hướng về sự hiệp nhất với Chính Thống Giáo, Anh Giáo qua nỗ lực Đại Kết (Ecumenism) mà Giáo Hội đã theo đuổi và cầu nguyện trong nhiều thế kỷ qua.

 

Bài: Sưu tầm & Biên tập

BÀI ĐĂNG
TAGS
Công giáo, Chính thống giáo và Anh giáo

Kitô Giáo (hay còn gọi là Cơ Đốc Giáo) cùng Do Thái giáo và Hồi Giáo có chung một tổ phụ là Abraham hay còn được ghi chép là các tôn giáo có cùng khởi nguồn từ Abraham.

 

 

Trong đó, Kitô Giáo tôn thờ Chúa Kitô (Christianity) nhưng sau đó, từ nguồn cội này chia làm ba nhánh Kitô Giáo là Công Giáo, Chính Thống và Tin Lành.

Theo dòng thời gian, đã có những biến cố gây ra tình trạng rạn nứt hay ly giáo (Schisms) hoặc những cải cách (Reformations) đáng tiếc xảy ra khiến Kitô Giáo bị phân chia thành 3 Nhánh chính trên. Ngoài ra, còn một nhánh Kitô Giáo nữa là Anh Giáo (Anglican Communion) do vua Henri VIII ( 1491-1547 ) của nước Anh chủ xướng năm 1534 để lập một Giáo Hội riêng cho nước Anh, tách khỏi Rôma chỉ vì Tòa Thánh Rôma (Đức Giáo Hoàng Clement VII) không chấp nhận cho nhà vua ly dị để lấy vợ khác.

 

 

Cho đến nay, các nhóm ly khai trên vẫn chưa hiệp thông được với Giáo Hội Công Giáo Rôma vì còn nhiều trở ngại chưa vượt qua được và hiện nay mỗi nhánh lại áp dụng các tín điều, cũng như mục vụ khác nhau. Và để tìm hiểu những khác nhau này, chúng ta cùng tham khảo sự khác nhau giữa Công Giáo, Chính Thống Giáo và Anh Giáo.

Chính Thống Giáo “Orthodoxy”, theo ngữ căn (Etymology) Hy Lạp “Orthos doxa”, có nghĩa là “ca ngợi đúng” (Right-praise), “tin tưởng đúng” (Right belief). Danh xưng này được dùng trước tiên để chỉ lập trường của các Giáo Đoàn Kitô đã tham dự các Công Đồng Đại Kết (Ecumenical Councils) Nicêa I (325) Ephêsô (431) và nhất là Chalcedon (451) trong đó họ đã đồng thanh chấp thuận và đề cao những giáo lý được coi là chân chính (Sound doctrines), tinh tuyền của Kitô Gíáo để chống lại những gì bị coi là tà thuyết hay lạc giáo (Heresy). Do đó, trong bối cảnh này, từ ngữ “Orthodoxy” được dùng để đối nghịch với từ ngữ “Heresy” có nghĩa là tà thuyết hay lạc giáo.

 

 

Nhưng sau biến cố năm 1054 khi hai Giáo Hội Kitô Giáo Hy Lạp ở Constantinople (tượng trưng cho Đông Phương) và Giáo Hội Công Giáo Rôma (Tây Phương) đã xung đột và ra vạ tuyệt thông cho nhau (Anthemas = excommunications) ngày 16 tháng 7 năm 1054 giữa Michael Cerularius, Thượng Phụ Constantinople và Đức cố Giáo Hoàng Leo IX vì có những bất đồng lớn về tín lý, thần học và quyền bính, thì danh xưng “Chính Thống” (Orthodoxy) lại được dùng để chỉ Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople đã tách ra khỏi hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo Rôma. Sau này, Giáo Hội “Chính Thống” Hy Lạp ở Constantinople đã lan ra các quốc gia trong vùng như Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Albania, Estonia, Cyprus, Finland, Latvia, Lithuania, Rumania, Bulgaria, Serbia, Ukraine… Vì thế, ở mỗi quốc gia này cũng có Giáo Hội Chính Thống nhưng độc lập với nhau về mọi phương diện. Nghĩa là không có ai là người lãnh đạo chung của các Giáo Hội này, mặc dù họ có tên gọi chung là các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương (Eastern Orthodox Churches) tách khỏi khỏi Giáo Hội Công Giáo Rôma (Tây Phương).

 

 

Tuy nhiên, hiện nay Thượng Phụ (Patriarch) Giáo Hội Chính Thống Thổ Nhĩ Kỳ ở Istanbul được coi là Thượng Phụ Đại Kết (Ecumenical Patriarch) của các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương. Cách nay 5 năm Đức Thánh Cha Benedict 16 (đã về hưu năm 2012) đã sang thăm Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Chính Thống Thổ để tỏ thiện chí muốn đối thoại, đưa đến hiệp thông giữa hai Giáo Hội anh em. Riêng Giáo Hội Chính Thống Nga, cho đến nay, vẫn chưa tỏ thiện chí muốn xích gần lại với Giáo Hội Công Giáo Rôma, vì họ cho rằng Công Giáo muốn “lôi kéo” tín đồ Chính Thống Nga vào Công Giáo sau khi Liên Xô tan rã, tạo điều kiện thuận lợi cho Giáo Hội Chính Thống Nga hành Đạo. Dầu vậy, một biến cố mới xẩy ra trong năm qua (2016) là Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp Thượng Phụ Giáo Hội Chính Thống Nga tại Mexico, nhưng kết quả của cuộc gặp gỡ lịch sử này giữa hai vị lãnh đạo Công Giáo và Chính Thống Nga không được công bố sau đó. Nhưng đây là một dấu chỉ tích cực giữa hai Giáo Hội anh em.

 

 

Trước khi xảy ra cuộc ly giáo năm 1054, hai nhánh Kitô giáo lớn ở Đông và Tây phương (The Greek Church and the Holy See = Rôma) nói trên vẫn hiệp thông trọn vẹn với nhau về mọi phương diện vì cả hai Giáo Hội anh em này đều là kết quả truyền giáo ban đầu của các Thánh Tông Đồ Phêrô và Anrê. Lịch sử truyền giáo cho biết là Thánh Phêrô (Peter) đã rao giảng Tin Mừng ở vùng đất nay là lãnh địa của Giáo Hội Công Giáo Rôma, trong khi em ngài, Thánh Anrê (Andrew) sang phía Đông để rao giảng trước hết ở Hy Lạp và sau đó phần đất nay là Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Như thế, cả hai Giáo Hội Kitô Giáo Đông Phương Constantinople và Tây Phương Rôma đều có nguồn gốc Tông Đồ thuần túy (Apostolic succession).

 

 

Những điểm gây bất đồng khiến đi đến ly giáo (schism) giữa Đông Tây:

Giáo Hội Chính Thống Đông Phương – tiêu biểu ban đầu là Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople,  đã bất đồng với Giáo Hội Công Giáo Rôma về từ ngữ “Filioque” (và Con) thêm vào trong Kinh Tin Kính Nicêa tuyên xưng “Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha, và Chúa Con mà ra”.

Giáo Hội Chính Thống Đông Phương cũng không công nhận các tín điều về Đức Mẹ Vô Nhiễm Thai (Immaculate Conception) và Lên Trời cả hồn xác (Assumption) mặc dù họ vẫn tôn kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos). Sở dĩ thế, vì họ không công nhận vai trò lãnh đạo Giáo Hội của Đức Giáo Hoàng, nên đã bác bỏ mọi tín điều được các Đức Giáo Hoàng công bố với ơn bất khả ngộ (Infallibility) mà Công Đồng Vaticanô I (1870) đã nhìn nhận.

Chính vì họ không công nhận quyền và vai trò lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ của Đức Giáo Hoàng Rôma, nên đây là trở ngại lớn nhất cho sự hiệp nhất (unity) giữa hai Giáo Hội Chính Thống và Công Giáo cho đến nay, mặc dù hai bên đã tha vạ tuyệt thông cho nhau sau cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Constantinople khi đó là Athenagoras I năm 1966.

Giáo Hội Chính Thống có đủ bảy Bí Tích hữu hiệu như Công Giáo. Tuy nhiên, với Bí Tích Rửa Tội thì họ dùng nghi thức dìm xuống nước (Immersion) 3 lần để nhấn mạnh ý nghĩa tái sinh vào đời sống mới, trong khi Giáo Hội Công Giáo chỉ dùng nước đổ trên đầu hay trán của người được rửa tội để vừa chỉ sự tẩy sạch tội nguyên tổ và các tội cá nhân (đối với người tân tòng) và tái sinh vào sự sống mới, mặc lấy Chúa Kitô.

 

 

Chính vì Giáo Hội Chính Thống có đủ các Bí Tích hữu hiệu như Công Giáo, nên Giáo Dân Công Giáo được phép tham dự Thánh Lễ và lãnh các Bí Tích Hòa Giải và Xức Dầu của Chính Thống nếu không tìm được Nhà Thờ Công Giáo hay Linh Mục Công Giáo khi cần.

Giáo Hội Chính Thống dùng bánh có men (Leavened bread) và ngôn ngữ Hy Lạp khi cử hành Phung Vụ, trong khi Giáo Hội Công Giáo dùng bánh không men (Unleavened bread) và tiếng Latinh trong Phụng Vụ Thánh trước Công Đồng Vaticanô II, và nay là các ngôn ngữ của mọi tín hữu thuộc mọi nền văn hóa, chủng tộc khác nhau, trong đó có tiếng Việt Nam.

Các Giáo Hội Chính Thống cho phép các Phó Tế và Linh Mục được kết hôn trừ Giám Mục, trong khi kỷ luật độc thân (Celibacy) lại được áp dụng cho mọi cấp bậc trong hàng Giáo Sĩ và Tu Sĩ Công Giáo, trừ Phó Tế Vĩnh Viễn (Permanent deacons).

Đó là những khác biệt căn bản giữa Giáo Hội Chính Thống Đông Phương và Giáo Hội Công Giáo Rôma cho đến nay.

Tuy nhiên, dù có những khác biệt và khó khăn trên đây, Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống Đông Phương đều rất gần nhau về nguồn gốc Tông Đồ và về nền tảng Đức Tin, Giáo Lý, Bí Tích và Kinh thánh. Vì thế, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã dạy rằng: “Đối với các Giáo Hội Chính Thống, sự hiệp thông này sâu xa đến nỗi “chỉ còn thiếu một chút là đạt được mức đầy đủ để có thể cho phép cử hành chung phép Thánh Thể của Chúa Kitô” (x. SGL GHCG, số 838).

 

 

Anh Giáo cũng giống như các nhóm Tin Lành đều không có các Bí Tích quan trọng như Thêm Sức, Thánh Thể, Hòa Giải, Xức Dầu bệnh nhân và Truyền Chức Thánh vì họ không có nguồn gốc Tông Đồ (Apostolic succession). Và quan trọng hơn nữa, người sáng lập của họ là người thường (Martin Luther, John Calvin, Henry XIII) chứ không phải là chính Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã lập Giáo Hội của Chúa trên Đá Tảng Phêrô (Mt 16, 18-19) và “Giáo Hội này tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo do Đấng kế vị Phêrô và các Giám Mục hiệp thông với ngài điều khiển” như Thánh Công Đồng Vaticanô II đã nhìn nhận (x. LG số 8). Cho nên các nhánh Tin Lành và Anh Giáo đều không có chức Linh Mục và Giám Mục hữu hiệu để cử hành các Bí Tích trên.

Cũng vậy, Anh Giáo chỉ có phép rửa (Baptism) như Tin Lành. Nhưng nếu nhóm nào không rửa tội với nước và công thức Chúa Ba Ngôi (The Trinitarian Formula) như nhóm Bahai Hullah, thì không thành sự (Invalidly).

Trên đây là những khác biệt căn bản giữa Công Giáo, Chính Thống Giáo và Anh Giáo. Tuy nhiên, Giáo Hội Công Giáo Rôma vẫn hướng về sự hiệp nhất với Chính Thống Giáo, Anh Giáo qua nỗ lực Đại Kết (Ecumenism) mà Giáo Hội đã theo đuổi và cầu nguyện trong nhiều thế kỷ qua.

 

Bài: Sưu tầm & Biên tập