Đức Mẹ Lộ Đức
 Lourdes, CH Pháp
Số lượng xem: 881

Đức Mẹ Lộ Đức là một trong số nhiều tước hiệu mà người Công giáo tôn kính dành cho Đức Mẹ Maria. Tước hiệu này xuất phát từ việc Đức Mẹ được cho là đã hiện ra với những cá nhân riêng biệt ở vùng Lourdes (Pháp), được phiên qua âm Việt là Lộ Đức.

Nổi bật nhất là các cuộc hiện ra vào ngày 11 tháng 2 năm 1858 với Bernadette Soubirous, khi đó mới là một bé gái 14 tuổi. Bernadette nói với mẹ rằng đã gặp một "bà đẹp" ở hang núi Massabielle trong khi đang đi nhặt củi với em gái và mộtngười bạn. Các cuộc xuất hiện tương tự với hình dạng "người phụ nữ" cũng được báo cáo trên 17 lần nữa trong cùng năm đó.

 

 

Bernadette về sau đã được phong Thánh bởi tòa Thánh Vatican. Nhiều người tin rằng việc Đức Mẹ hiện ra với Bernadette được xác thực bởi khả năng chữa bệnh "kỳ lạ" tại suối nước Lộ Đức. Tước hiệu "Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội" cũng được dùng gọi cho người phụ nữ hiện ra này. Hình tượng Đức Mẹ Lộ Đức được thấy ở nhiều Thánh đường, nhà cửa và đặc biệt là ở các hang đá mô phỏng hang đá Lộ Đức.

Tổng cộng đã có 18 cuộc "hiện ra" tại hang đá Massabielle từ tháng 2 cho tới tháng 7 năm 1858. Chín lần đầu là vào các ngày 11, 14, 18, 19, 20, 21, 23, 24, 25 tháng 2.

Lần thứ nhất vào buổi trưa ngày 11 tháng 2 năm 1858. Cùng đi với Bernadette có em gái là Marie-Antoinette và bạn gái là Jeanne Abadie. Khi đến trước hang đá Massabielle ở chỗ con kênh giao thoa với sông Gave, Marie và Jeanne lội qua trước để nhặt củi trong hang. Bernadette đang cúi xuống cởi tất để chuẩn bị lội theo.

Bernadette thuật lại như sau: "Thình lình tôi nghe thấy một cái gì đó như tiếng gió vi vu. Tôi ngoảnh đầu lại hướng về phía đồng cỏ gần bờ sông, song cây cối vẫn lặng lẽ, rõ ràng là tiếng động không xuất phát từ chúng. Đoạn tôi nhìn lên và thấy ngay trong động đá một người nữ mặc chiếc áo trắng dễ thương với chiếc dây thắt óng ánh. Trên chân của bà mỗi bên đều có một bông hồng màu vàng nhạt, cùng màu với những hột ở tràng chuỗi mân côi của bà".

Bernadette giơ tay dụi mắt, rồi nhắm và mở ra, nhưng Bà vẫn ở đó, tiếp tục mỉm cười và ra dấu cho biết cô không lầm. Bernadette thò tay vào túi lấy tràng hạt và quỳ xuống. Khi Bernadette lần hạt xong Bà ra hiệu cho cô lại gần nhưng Bernadette không dám. Khi đó Bà lui vào trong và biến mất cùng với đám mây sáng.

Bernadette muốn giữ kín mọi sự, nhưng trên đường về nhà cô em gái đã gặng hỏi khiến cho cô kể lại chuyện xảy ra với điều kiện là không được nói với ai. Nhưng Marie Antoinette mách lại cho mẹ biết. Bà Soubirous cho là chuyện bịa đặt nên đánh cho hai con gái một trận.

Ba ngày sau đó Bernadette quay trở lại hang đá cùng với em gái và cô bạn. Bernadette đem theo một chai nước Thánh như một sự kiểm chứng. "Nếu bà ấy đến từ Thiên Chúa, bà ấy sẽ ở lại, còn nếu bà ấy là quỷ dữ, bà ấy sẽ phải đi". Lát sau Bernadette kêu lên: "Bà ở đó! Bà ở đó!". Cô đứng dậy vội vã rảy nước Thánh về phía bụi hồng và nói: "Nếu Bà đến nhân danh Thiên Chúa, thì xin hãy lại gần".

Ngày 18 tháng 2, lần đầu tiên Bà nói chuyện với Bernadette và xin cô hãy trở lại hằng ngày trong vòng 15 ngày kế tiếp. Đồng thời cũng yêu cầu Bernadette nói với các vị linh mục hãy xây cất lên một thánh đường ở đó. Bà còn nói với cô: "Ta không hứa cho con được hạnh phúc ở đời này nhưng đời sau".

Ngày 24 tháng 2, Bà yêu cầu Bernadette hãy cầu nguyện và sám hối thay cho các tội nhân. Ngày hôm sau bà bảo cô hãy uống nước ở rạch nước. Điều này khiến cho Bernadette bối rối vì chỉ có con sông Gave là dòng nước duy nhất ở đó. Nhưng bà ra dấu không phải sông mà là một tia nước nhỏ cạnh chỗ cô đang đứng: "Tôi chỉ thấy có một vài giọt nước, còn toàn là bùn. Tôi chụm tay lại để hớt lấy một chút nhưng không được, tôi liền cào đất lên. Tôi cố tìm lấy một ít giọt nước, nhưng mãi vào lần thứ bốn tôi mới có đủ lượng nước để uống".

Những người chứng kiến đã rất thất vọng khi thấy Bernadette bới đất nhưng rồi một dòng nước sạch từ đó chảy ra và sau này đã nhanh chóng trở thành tâm điểm của những cuộc hành hương. Thông tin loan truyền từ vùng này qua vùng khác và người ta mang đến đây đủ thứ bệnh. Đã có nhiều bệnh nhân được ghi nhận là được chữa khỏi một cách thần kỳ. Bảy trong số trường hợp đầu tiên được xác nhận là thiếu một cách giải thích thấu đáo về mặt y khoa bởi giáo sư Verges vào năm 1860. Người đầu tiên được chứng nhận như một "phép lạ" là một phụ nữ có cánh tay bị biến dạng bởi một vụ tai nạn. Một số trường hợp chỉ khỏi bệnh trong thời gian ngắn rồi tái phát. Thậm chí có cả những vụ lừa đảo.

Những điều này đã khiến Giáo hội và chính quyền hết sức quan tâm. Từ tháng 4 tới tháng 10 năm 1858, chính quyền cấm dân chúng đến hang đá, cấm bất cứ người nào lấy nước từ mạch Massabielle. Một hàng rào bằng ván gỗ được dựng vững chãi trước cửa hang để ngăn cản mọi người lui tới hang. Những người vi phạm sẽ phải chịu hình phạt theo luật định. Muốn đến hang đá phải có giấy phép của hoàng đế Napoléon III.

Trong các cuộc hiện ra, Bernadette Soubirous đã nhiều lần hỏi về tên của bà, song bà chỉ mỉm cười. Sau cùng ngày 25 tháng 3 với cánh tay giang ra và đôi mắt ngước lên trời, bà phán rằng bà là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Bernadette Soubirous không hiểu kiểu nói "Vô nhiễm nguyên tội" là gì. Vì thế cô đến gặp Linh mục và người này hiểu đó là Đức Mẹ Maria.

Ngày 7 tháng 4, những người có mặt trông thấy sự say mê của Bernadette như một sự xuất thần. Chính ngày đó bác sĩ Dozous đã quan sát thấy trong vòng 15 phút "phép lạ cây nến". Ngọn lửa của cây nến đã không gây ra vết cháy nào trên da thịt Bernadette trong lúc cô xuất thần và tham dự vào sự vô cảm. Lần cuối cùng vào ngày 16 tháng 7 năm 1858. Vì hang đá đã bị rào bởi lệnh của chính quyền, Bernadette cùng với dì Lucile và vài bạn gái đi đến bờ bên phải của sông Gave trong cánh đồng Ribère đối diện với hang đá. Tất cả quỳ gối và cầu nguyện. Sau một lúc Bernadette kêu lên: "Vâng, vâng, Mẹ đó! Mẹ mỉm cười với chúng ta và chào chúng ta bên trên hàng rào cản. Chưa bao giờ tôi thấy Mẹ đẹp như vậy". Đó lần cuối cùng được ghi nhận về việc Đức Mẹ hiện ra với Bernadette.

Ngày 19 tháng 11 năm 1858, Ủy ban điều tra của Tòa giám mục đến hang đá lần đầu tiên. Sau khi xem xét tỉ mỉ các biến cố, tìm hiểu về Bernadette cũng như các phép lạ lành bệnh xảy ra mà các tín hữu nhận được tại hang đá Đức Mẹ, vị giám mục thừa nhận tính cách đích thực của các lần hiện ra và tuyên bố: "Đức Maria đã thực sự hiện ra với Bernadette Soubirous". Điều này đã thiết lập sự tôn kính dành cho Đức Mẹ Maria ở Lộ Đức, cùng với Fatima là hai linh địa được nhiều người ghé thăm nhất. Mỗi năm có từ 4 đến 6 triệu khách du lịch hành hương từ khắp mọi nơi trên thế giới.

Cuộc hành hương chính thức đầu tiên được tổ chức ngày mùng 4 tháng 4 năm 1864 nhân dịp khánh thành và đặt bức tượng Đức Mẹ vào hang đá trong sự hiện diện của 20.000 khách hành hương. Tượng bằng đá cẩm thạch Carrara do ông Joseph-Hugues Fabish người Lyon tạc. Tháng 5 năm 1866, hang Massabielle được làm phép.

Khi đường xe lửa nối liền Lộ Đức với Bayonne năm 1867 và với Toulouse vào năm 1868, các cuộc hành hương bằng xe lửa bắt đầu. Cuốn sách của ông Henri Lasserre tựa đề "Đức Mẹ Lộ Đức" xuất bản năm 1869 và được dịch ra 80 thứ tiếng khác nhau, đã làm cho sự kiện Lộ Đức được nhiều người biết đến hơn và do đó các cuộc hành hương với số lượng ngày càng lớn hơn.

Đặc biệt sau khi nước Pháp thua trận trong Chiến tranh Pháp - Phổ, các cuộc hành hương ngày càng lớn. Vào tháng 10 năm 1872 có "cuộc hành hương cờ". Năm 1873 có cuộc hành hương toàn quốc cầu nguyện và đền tội, người ta còn tổ chức các chuyến xe lửa chở các bệnh nhân đi hành hương Lộ Đức.

Từ 1 đến 3 tháng 7 năm 1876 có lễ thánh hiến Vương cung Thánh đường và đội triều thiên cho tượng Đức Mẹ bởi Giáo hoàng Piô IX. Ngày 16 tháng 7 năm 1883 kỷ niệm 25 năm Đức Mẹ hiện ra và lễ đặt viên đá đầu tiên xây Vương cung Thánh đường Mân Côi. Trong năm đó đã có 230 cuộc hành hương. Năm 1908 kỷ niệm 50 năm Đức Mẹ hiện ra có 157 cuộc hành hương, trong đó 76 cuộc hành hương là của các tín hữu đến từ nước ngoài, tổng cộng có hơn 1 triệu người.

Nước suối Lộ Đức được phân tích lần đầu tiên vào ngày 7 tháng 8 năm 1858 và cho thấy nó là nước bình thường. Nhà hóa học Filhon, giáo sư Đại học Toulouse liệt kê các thành phần hóa chất của nước. Bao gồm đầy đủ cả: Carbonat, clorat, silicat, calcium, sắt, mangesium, phốt pho, amomiac, pồ-tạt và các muối khoáng khác.

"Từ những phân tích trên, chúng tôi kết luận: Mẫu nước mạch Lộ Đức không có gì đặc biệt, chỉ là nước uống bình thường, nó không chứa đựng chất nào chữa bệnh cả. Hiệu quả chữa bệnh của nó mà người ta gán cho không nằm trong nước. Tối thiểu nền văn minh khoa học hiện đại xác minh như vậy. Các muối khoáng tan trong nước không có chi khác biệt với nước uống bình thường khác. Uống nước này không gây hiệu quả có hại hoặc có lợi nào cả".

Năm 1882, một ủy ban khoa học với mục đích nghiên cứu và xác nhận các phép lạ tại Lộ Đức được thành lập. Tiếp đó, văn phòng quan sát y khoa do Giáo hoàng Piô X thành lập năm 1905. Văn phòng này dựa theo các tiêu chuẩn được định nghĩa bởi Hồng y Lamberti, tức Giáo hoàng Biển Đức XIV tương lai. Nó hoàn toàn được làm việc về mặt chuyên môn y khoa chứ không chịu quyền kiểm soát của giáo hội.

Làm việc trong văn phòng này có các bác sĩ chuyên môn không phân biệt tôn giáo. Họ quan sát ghi nhận các vụ khỏi bệnh lạ lùng và trình lên Ủy ban y khoa quốc tế xác nhận. Nếu thấy đó là các vụ khỏi bệnh không thể nào giải thích được trên bình diện y khoa theo các hiểu biết hiện thời. Tiếp đến sau khi có các thẩm định khác Giáo hội có thể khẳng định việc lành bệnh là một phép lạ.

Các điều kiện được đưa ra bao gồm:

- Việc chẩn bệnh ban đầu phải được kiểm thực và xác nhận không có sự nghi ngờ nào.

- Căn bệnh phải được coi là không thể chữa trị được nữa theo các hiểu biết y khoa hiện hành.

- Việc khỏi bệnh phải liên quan tới một lần viếng thăm Lộ Đức, có thể không đòi phải dìm mình trong nước suối.

- Việc khỏi bệnh phải ngay tức khắc, với việc chấm dứt nhanh chóng các triệu chứng hay các dấu hiệu của bệnh.

- Việc khỏi bệnh phải hoàn toàn, không còn có các dấu vết khó chịu.

- Việc khỏi bệnh phải vĩnh viễn, không mắc lại.

Cho tới nay trên tổng số 7.000 vụ khỏi bệnh không thể giải thích được trên bình diện y khoa, tuy nhiên chỉ có 70 trường hợp khỏi bệnh tại Lourdes được Giáo hội chính thức thừa nhận là phép lạ. Các phép lạ được công nhận ở Lộ Đức là một trong những nơi ít gây tranh cãi nhất trong thế giới Công giáo. Tất cả các bác sĩ phù hợp với chuyên môn có quyền truy cập không giới hạn vào các dữ liệu và các văn bản của Cục Y tế Lộ Đức bao gồm cả các trường hợp đã được công nhận chính thức là phép lạ và các trường hợp chưa. Các trường hợp khỏi bệnh đều được đưa ra thảo luận công khai và đưa lên các phương tiện truyền thông vào thời điểm đó.

Ngày 18 tháng 1 năm 1862, Giám mục Tarbes-Lourdes tuyên bố là sự lạ Bernadette đã được thị kiến là đúng sự thật, đáng tin:"Chúng tôi lấy căn cứ từ một ủy ban bao gồm các nhà trí thức, thánh thiện, có học vấn và các linh mục giàu kinh nghiệm đã tiến hành các câu hỏi với những đứa trẻ, nghiên cứu các sự kiện, kiểm tra tất cả mọi thứ và cân nhắc kỹ lưỡng các bằng chứng. Chúng tôi cũng đã liên lạc về giới khoa học, và sau cùng chúng tôi tin rằng các cuộc hiện ra là siêu nhiên và Thần Thánh. Quả thực, những gì Bernadette trông thấy là Đức Trinh Nữ. Niềm tin của chúng tôi dựa trên lời tường thuật của Bernadette, nhưng còn trên tất cả những điều đã xảy ra, không có cách lý giải nào khác hơn là sự can thiệp của Thiên Chúa".

Do các cuộc hiện ra chỉ với tư cách cá nhân nên người Công giáo không bắt buộc phải tin. Nhưng trong niềm tin Công giáo, như Bernadette đã nói: "Người ta phải có niềm tin và cầu nguyện, nước sẽ không nhiệm mầu nếu không có đức hạnh và không có lòng tin"

 

LINH ĐỊA LỘ ĐỨC

Linh địa Lộ Đức 51 hecta là nơi tọa lạc của nhiều Nhà thờ, Vương cung Thánh đường và các dịch vụ như nhà lưu trú, cửa hàng phục vụ… khách hành hương Công giáo khi đến đây.

 

 

Nhà thờ Crypt, đây là nhà thờ đầu tiên được xây dựng bởi Cha Abbé Peyramale và Đức Cha Laurence tại nơi mà Đức Mẹ đã hiện ra. Hoàn thành sớm nhất (vào năm 1866) nhưng Crypt lại là nhà thờ nhỏ nhất ở linh địa Lộ Đức.

 

 

Điểm nổi bật nhất khi hành hương đến Crypt chính là tượng đồng Thánh Phêrô rất lớn, đối diện là tượng Đức Giáo hoàng Piô X. Những con đường dọc theo hành lang và trung tâm được lát mảng đá hay còn được gọi là “voto” được quyên góp từ tín hữu khắp nơi.

 

Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội hay Nhà thờ Thượng nổi tiếng là điểm hành hương Công giáo thu hút nhiều khách nhất ở linh địa Lộ Đức.

 

 

Vương cung Thánh đường này được cung hiến vào năm 1876, tọa lạc trên đỉnh núi ngay phía sau hang Massabielle – nơi Đức Mẹ hiện ra 18 lần, và là công trình thứ 2 được xây dựng tại linh địa. Kiến trúc thiết kế theo phong cách Gothic bởi kiến trúc sư Hyppolyte Durand tạo nhiều ấn tượng cho khách tham quan. Nổi bật với những con đường được trải dài bằng mảng “voto” và biểu ngữ của nhiều quốc gia đã từng hành hương đến đây. Ngoài ra, vương cung thánh đường còn được trang trí bởi vô số các cửa kính màu mô tả các câu chuyện trong Kinh Thánh và các cửa sổ lấy ánh sáng được vẽ hình ảnh Đức Mẹ Maria.

Bên ngoài, tháp chuông nhà thờ nổi bật có chiều cao 70m, bên cạnh là tháp nhỏ hơn được hoàn thành vào năm 1908. Trên lối vào được khảm hình vẽ của Đức Giáo hoàng Piô IX người đã định tín điều về Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 1854.

 

 

Vương cung thánh đường Mân Côi, hoàn thành vào năm 1899, được cung hiến năm 1901, Vương cung Thánh đường Mân Côi hay còn được biết đến là Nhà Thờ Hạ. Kiến trúc Vương cung Thánh đường này chịu ảnh hưởng phong cách Byzantine. Trung tâm Thánh đường rộng lớn và có hình tròn, mái vòm bên trên. Phía bên ngoài của mái vòm vô cùng nổi bật với một cây Thánh Giá mạ vàng – là món quà của nước Ireland gửi đến vào năm 1924.

 

 

Khuôn viên Vương cung Thánh đường Mân Côi được tu sửa vào năm 2007 bao gồm cả những hình ảnh về “Mầu Nhiệm Năm Sự Sáng” do Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II công bố vào năm 2002. Khoảng không gian phía trước Vương cung Thánh đường được gọi là Quảng trường Mân Côi.

 

 

Vương cung Thánh đường Ngầm mang tên Đức Giáo hoàng Piô X là công trình lớn nhất và thu hút nhất trong số các Nhà thờ chính ở linh địa Lộ Đức. Công trình khổng lồ này được thiết kế bởi kiến trúc sư Pierre Vago vào hoàn tất các công đoạn xây dựng vào năm 1958, toàn bộ tòa Nhà thờ nằm hoàn toàn dưới lòng đất, có sức chứa 25.000 giáo dân.

 

 

Nhà thờ Thánh Bernadette được cung hiến năm 1988, xây dựng ngay trên khu đất đối diện với hang, tại nơi mà lần cuối cùng Thánh Bernadette đứng thị kiến Đức Mẹ. Kiến trúc Nhà thờ hiện đại, được thiết kế với nhiều cửa sổ nhằm mang lại ánh sáng tự nhiên vào trung tâm Nhà thờ. Toàn bộ công trình do kiến trúc sư Jean-Paul Felix thiết kế.

Nhà thờ còn có không gian rộng, có thể chứa hơn 5.000 giáo dân và 350 chỗ dành cho người khuyết tật. Bên cạnh đó còn có một Nhà phức hợp Hemicycle sử dụng để thờ phụng, phòng hội nghị, phòng dành cho các hoạt động khác.

 

 

Hang Đức Mẹ hiện ra - Grottes De L’Apparitton là khu vực hành hương Công giáo quan trong nhất ở linh địa Lộ Đức hay còn có tên gọi Grotte Massabielle. Nhiều người hành hương, hay thậm chí là những người ngoại đạo đến du lịch đều có cùng cảm giác được Đức Mẹ ban ơn khi đặt chân đến đây vì họ cảm nhận được bầu khí ấm áp và gần gũi.

Nguồn nước ở linh địa có ghi câu: “Nếu không tin thì không có phép lạ nào cả”, mang ý nghĩa rằng cần có đức tin, lòng thành tâm của mình mới có thể mang lại điều kỳ diệu. Có thể nói nơi đây không bao giờ ngớt bóng người. Rất nhiều tín hữu Công giáo đến để cầu nguyện hay tham dự một thánh lễ ngay trước hang Đức Mẹ hiện ra. Thánh lễ được cử hành nhiều lần trong ngày nhưng đặc biệt nhất là khi đêm xuống, lễ rước kiệu với ánh nến vô cùng lung linh, ấm cúng lúc 21 giờ tối.

Mọi khách hành hương sẽ cầm một cây nến màu trắng, xếp hàng và cùng nhau rước đi vòng quanh hang, họ thường dùng tay sẽ sờ vào vách đá, hứng vài giọt nước bên trong hang nhỏ xuống rồi đặt lên đầu mình. Một điều rất thú vị là trên tấm vách đá bên Thánh đường, nơi Đức Mẹ hiện ra có đặt những tấm bảng viết bằng rất nhiều ngôn ngữ khác nhau, trong đó có một bảng cuối cùng, hình tròn viết bằng tiếng Việt: “Con hãy đến uống và rửa ở suối này”.

Ở đây, ngay cạnh bờ sông có một hồ tắm gội dành cho các tín hữu Công giáo muốn được tắm với nguồn nước suối của Lộ Đức. Đầu nguồn suối, ngay dưới chân hang đá Đức Mẹ hiện ra, dòng nước chảy mạnh, trong lành, mát lạnh và uống rất ngon. Dường như không có ai phải e ngại, tất cả đều uống nước suối ở linh địa Lộ Đức, thậm chí có người còn múc nước suối mang về.

Suối tắm có hai bên, một bên dành cho nam và bên kia dành cho nữ. Tùy vào từng mùa trong năm, mỗi người muốn tắm phải chờ đến lượt, thông thường một lần chỉ được 3 người hay 5 người. Bước vào bên trong, mỗi người sẽ được một linh mục cùng hai người thiện nguyện giúp đỡ đọc kinh Cầu nguyện trước khi trầm mình xuống làn nước trong mát ấy. Vào mùa đông, nước suối rất lạnh, khoảng 8-9 độ C, tuy nhiên những người đến tắm vẫn cảm thấy vui vẻ và toại nguyện.

Ngoài ra còn có nhà nguyện Hòa Giải, Nhà nguyện Thánh Giuse, Cổng Thánh Michael…

Đền thánh Đức Mẹ Lộ Đức đã được các Giám mục Pháp nâng lên hàng Đền thánh quốc gia, qua việc ban hành các quy chế giáo luật có hiệu lực vào ngày 11/02/2021 vẫn niên nỉ với sứ vụ, dành cho tất cả mọi người và mang tầm quốc tế. Xác định các quy chế mới này, mục đích là để làm rõ chiều kích địa phương, quốc gia, quốc tế.

 

Bài: Sưu tầm & Biên tập

Đức Mẹ Lộ Đức
 Lourdes, CH Pháp

Đức Mẹ Lộ Đức là một trong số nhiều tước hiệu mà người Công giáo tôn kính dành cho Đức Mẹ Maria. Tước hiệu này xuất phát từ việc Đức Mẹ được cho là đã hiện ra với những cá nhân riêng biệt ở vùng Lourdes (Pháp), được phiên qua âm Việt là Lộ Đức.

Nổi bật nhất là các cuộc hiện ra vào ngày 11 tháng 2 năm 1858 với Bernadette Soubirous, khi đó mới là một bé gái 14 tuổi. Bernadette nói với mẹ rằng đã gặp một "bà đẹp" ở hang núi Massabielle trong khi đang đi nhặt củi với em gái và mộtngười bạn. Các cuộc xuất hiện tương tự với hình dạng "người phụ nữ" cũng được báo cáo trên 17 lần nữa trong cùng năm đó.

 

 

Bernadette về sau đã được phong Thánh bởi tòa Thánh Vatican. Nhiều người tin rằng việc Đức Mẹ hiện ra với Bernadette được xác thực bởi khả năng chữa bệnh "kỳ lạ" tại suối nước Lộ Đức. Tước hiệu "Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội" cũng được dùng gọi cho người phụ nữ hiện ra này. Hình tượng Đức Mẹ Lộ Đức được thấy ở nhiều Thánh đường, nhà cửa và đặc biệt là ở các hang đá mô phỏng hang đá Lộ Đức.

Tổng cộng đã có 18 cuộc "hiện ra" tại hang đá Massabielle từ tháng 2 cho tới tháng 7 năm 1858. Chín lần đầu là vào các ngày 11, 14, 18, 19, 20, 21, 23, 24, 25 tháng 2.

Lần thứ nhất vào buổi trưa ngày 11 tháng 2 năm 1858. Cùng đi với Bernadette có em gái là Marie-Antoinette và bạn gái là Jeanne Abadie. Khi đến trước hang đá Massabielle ở chỗ con kênh giao thoa với sông Gave, Marie và Jeanne lội qua trước để nhặt củi trong hang. Bernadette đang cúi xuống cởi tất để chuẩn bị lội theo.

Bernadette thuật lại như sau: "Thình lình tôi nghe thấy một cái gì đó như tiếng gió vi vu. Tôi ngoảnh đầu lại hướng về phía đồng cỏ gần bờ sông, song cây cối vẫn lặng lẽ, rõ ràng là tiếng động không xuất phát từ chúng. Đoạn tôi nhìn lên và thấy ngay trong động đá một người nữ mặc chiếc áo trắng dễ thương với chiếc dây thắt óng ánh. Trên chân của bà mỗi bên đều có một bông hồng màu vàng nhạt, cùng màu với những hột ở tràng chuỗi mân côi của bà".

Bernadette giơ tay dụi mắt, rồi nhắm và mở ra, nhưng Bà vẫn ở đó, tiếp tục mỉm cười và ra dấu cho biết cô không lầm. Bernadette thò tay vào túi lấy tràng hạt và quỳ xuống. Khi Bernadette lần hạt xong Bà ra hiệu cho cô lại gần nhưng Bernadette không dám. Khi đó Bà lui vào trong và biến mất cùng với đám mây sáng.

Bernadette muốn giữ kín mọi sự, nhưng trên đường về nhà cô em gái đã gặng hỏi khiến cho cô kể lại chuyện xảy ra với điều kiện là không được nói với ai. Nhưng Marie Antoinette mách lại cho mẹ biết. Bà Soubirous cho là chuyện bịa đặt nên đánh cho hai con gái một trận.

Ba ngày sau đó Bernadette quay trở lại hang đá cùng với em gái và cô bạn. Bernadette đem theo một chai nước Thánh như một sự kiểm chứng. "Nếu bà ấy đến từ Thiên Chúa, bà ấy sẽ ở lại, còn nếu bà ấy là quỷ dữ, bà ấy sẽ phải đi". Lát sau Bernadette kêu lên: "Bà ở đó! Bà ở đó!". Cô đứng dậy vội vã rảy nước Thánh về phía bụi hồng và nói: "Nếu Bà đến nhân danh Thiên Chúa, thì xin hãy lại gần".

Ngày 18 tháng 2, lần đầu tiên Bà nói chuyện với Bernadette và xin cô hãy trở lại hằng ngày trong vòng 15 ngày kế tiếp. Đồng thời cũng yêu cầu Bernadette nói với các vị linh mục hãy xây cất lên một thánh đường ở đó. Bà còn nói với cô: "Ta không hứa cho con được hạnh phúc ở đời này nhưng đời sau".

Ngày 24 tháng 2, Bà yêu cầu Bernadette hãy cầu nguyện và sám hối thay cho các tội nhân. Ngày hôm sau bà bảo cô hãy uống nước ở rạch nước. Điều này khiến cho Bernadette bối rối vì chỉ có con sông Gave là dòng nước duy nhất ở đó. Nhưng bà ra dấu không phải sông mà là một tia nước nhỏ cạnh chỗ cô đang đứng: "Tôi chỉ thấy có một vài giọt nước, còn toàn là bùn. Tôi chụm tay lại để hớt lấy một chút nhưng không được, tôi liền cào đất lên. Tôi cố tìm lấy một ít giọt nước, nhưng mãi vào lần thứ bốn tôi mới có đủ lượng nước để uống".

Những người chứng kiến đã rất thất vọng khi thấy Bernadette bới đất nhưng rồi một dòng nước sạch từ đó chảy ra và sau này đã nhanh chóng trở thành tâm điểm của những cuộc hành hương. Thông tin loan truyền từ vùng này qua vùng khác và người ta mang đến đây đủ thứ bệnh. Đã có nhiều bệnh nhân được ghi nhận là được chữa khỏi một cách thần kỳ. Bảy trong số trường hợp đầu tiên được xác nhận là thiếu một cách giải thích thấu đáo về mặt y khoa bởi giáo sư Verges vào năm 1860. Người đầu tiên được chứng nhận như một "phép lạ" là một phụ nữ có cánh tay bị biến dạng bởi một vụ tai nạn. Một số trường hợp chỉ khỏi bệnh trong thời gian ngắn rồi tái phát. Thậm chí có cả những vụ lừa đảo.

Những điều này đã khiến Giáo hội và chính quyền hết sức quan tâm. Từ tháng 4 tới tháng 10 năm 1858, chính quyền cấm dân chúng đến hang đá, cấm bất cứ người nào lấy nước từ mạch Massabielle. Một hàng rào bằng ván gỗ được dựng vững chãi trước cửa hang để ngăn cản mọi người lui tới hang. Những người vi phạm sẽ phải chịu hình phạt theo luật định. Muốn đến hang đá phải có giấy phép của hoàng đế Napoléon III.

Trong các cuộc hiện ra, Bernadette Soubirous đã nhiều lần hỏi về tên của bà, song bà chỉ mỉm cười. Sau cùng ngày 25 tháng 3 với cánh tay giang ra và đôi mắt ngước lên trời, bà phán rằng bà là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Bernadette Soubirous không hiểu kiểu nói "Vô nhiễm nguyên tội" là gì. Vì thế cô đến gặp Linh mục và người này hiểu đó là Đức Mẹ Maria.

Ngày 7 tháng 4, những người có mặt trông thấy sự say mê của Bernadette như một sự xuất thần. Chính ngày đó bác sĩ Dozous đã quan sát thấy trong vòng 15 phút "phép lạ cây nến". Ngọn lửa của cây nến đã không gây ra vết cháy nào trên da thịt Bernadette trong lúc cô xuất thần và tham dự vào sự vô cảm. Lần cuối cùng vào ngày 16 tháng 7 năm 1858. Vì hang đá đã bị rào bởi lệnh của chính quyền, Bernadette cùng với dì Lucile và vài bạn gái đi đến bờ bên phải của sông Gave trong cánh đồng Ribère đối diện với hang đá. Tất cả quỳ gối và cầu nguyện. Sau một lúc Bernadette kêu lên: "Vâng, vâng, Mẹ đó! Mẹ mỉm cười với chúng ta và chào chúng ta bên trên hàng rào cản. Chưa bao giờ tôi thấy Mẹ đẹp như vậy". Đó lần cuối cùng được ghi nhận về việc Đức Mẹ hiện ra với Bernadette.

Ngày 19 tháng 11 năm 1858, Ủy ban điều tra của Tòa giám mục đến hang đá lần đầu tiên. Sau khi xem xét tỉ mỉ các biến cố, tìm hiểu về Bernadette cũng như các phép lạ lành bệnh xảy ra mà các tín hữu nhận được tại hang đá Đức Mẹ, vị giám mục thừa nhận tính cách đích thực của các lần hiện ra và tuyên bố: "Đức Maria đã thực sự hiện ra với Bernadette Soubirous". Điều này đã thiết lập sự tôn kính dành cho Đức Mẹ Maria ở Lộ Đức, cùng với Fatima là hai linh địa được nhiều người ghé thăm nhất. Mỗi năm có từ 4 đến 6 triệu khách du lịch hành hương từ khắp mọi nơi trên thế giới.

Cuộc hành hương chính thức đầu tiên được tổ chức ngày mùng 4 tháng 4 năm 1864 nhân dịp khánh thành và đặt bức tượng Đức Mẹ vào hang đá trong sự hiện diện của 20.000 khách hành hương. Tượng bằng đá cẩm thạch Carrara do ông Joseph-Hugues Fabish người Lyon tạc. Tháng 5 năm 1866, hang Massabielle được làm phép.

Khi đường xe lửa nối liền Lộ Đức với Bayonne năm 1867 và với Toulouse vào năm 1868, các cuộc hành hương bằng xe lửa bắt đầu. Cuốn sách của ông Henri Lasserre tựa đề "Đức Mẹ Lộ Đức" xuất bản năm 1869 và được dịch ra 80 thứ tiếng khác nhau, đã làm cho sự kiện Lộ Đức được nhiều người biết đến hơn và do đó các cuộc hành hương với số lượng ngày càng lớn hơn.

Đặc biệt sau khi nước Pháp thua trận trong Chiến tranh Pháp - Phổ, các cuộc hành hương ngày càng lớn. Vào tháng 10 năm 1872 có "cuộc hành hương cờ". Năm 1873 có cuộc hành hương toàn quốc cầu nguyện và đền tội, người ta còn tổ chức các chuyến xe lửa chở các bệnh nhân đi hành hương Lộ Đức.

Từ 1 đến 3 tháng 7 năm 1876 có lễ thánh hiến Vương cung Thánh đường và đội triều thiên cho tượng Đức Mẹ bởi Giáo hoàng Piô IX. Ngày 16 tháng 7 năm 1883 kỷ niệm 25 năm Đức Mẹ hiện ra và lễ đặt viên đá đầu tiên xây Vương cung Thánh đường Mân Côi. Trong năm đó đã có 230 cuộc hành hương. Năm 1908 kỷ niệm 50 năm Đức Mẹ hiện ra có 157 cuộc hành hương, trong đó 76 cuộc hành hương là của các tín hữu đến từ nước ngoài, tổng cộng có hơn 1 triệu người.

Nước suối Lộ Đức được phân tích lần đầu tiên vào ngày 7 tháng 8 năm 1858 và cho thấy nó là nước bình thường. Nhà hóa học Filhon, giáo sư Đại học Toulouse liệt kê các thành phần hóa chất của nước. Bao gồm đầy đủ cả: Carbonat, clorat, silicat, calcium, sắt, mangesium, phốt pho, amomiac, pồ-tạt và các muối khoáng khác.

"Từ những phân tích trên, chúng tôi kết luận: Mẫu nước mạch Lộ Đức không có gì đặc biệt, chỉ là nước uống bình thường, nó không chứa đựng chất nào chữa bệnh cả. Hiệu quả chữa bệnh của nó mà người ta gán cho không nằm trong nước. Tối thiểu nền văn minh khoa học hiện đại xác minh như vậy. Các muối khoáng tan trong nước không có chi khác biệt với nước uống bình thường khác. Uống nước này không gây hiệu quả có hại hoặc có lợi nào cả".

Năm 1882, một ủy ban khoa học với mục đích nghiên cứu và xác nhận các phép lạ tại Lộ Đức được thành lập. Tiếp đó, văn phòng quan sát y khoa do Giáo hoàng Piô X thành lập năm 1905. Văn phòng này dựa theo các tiêu chuẩn được định nghĩa bởi Hồng y Lamberti, tức Giáo hoàng Biển Đức XIV tương lai. Nó hoàn toàn được làm việc về mặt chuyên môn y khoa chứ không chịu quyền kiểm soát của giáo hội.

Làm việc trong văn phòng này có các bác sĩ chuyên môn không phân biệt tôn giáo. Họ quan sát ghi nhận các vụ khỏi bệnh lạ lùng và trình lên Ủy ban y khoa quốc tế xác nhận. Nếu thấy đó là các vụ khỏi bệnh không thể nào giải thích được trên bình diện y khoa theo các hiểu biết hiện thời. Tiếp đến sau khi có các thẩm định khác Giáo hội có thể khẳng định việc lành bệnh là một phép lạ.

Các điều kiện được đưa ra bao gồm:

- Việc chẩn bệnh ban đầu phải được kiểm thực và xác nhận không có sự nghi ngờ nào.

- Căn bệnh phải được coi là không thể chữa trị được nữa theo các hiểu biết y khoa hiện hành.

- Việc khỏi bệnh phải liên quan tới một lần viếng thăm Lộ Đức, có thể không đòi phải dìm mình trong nước suối.

- Việc khỏi bệnh phải ngay tức khắc, với việc chấm dứt nhanh chóng các triệu chứng hay các dấu hiệu của bệnh.

- Việc khỏi bệnh phải hoàn toàn, không còn có các dấu vết khó chịu.

- Việc khỏi bệnh phải vĩnh viễn, không mắc lại.

Cho tới nay trên tổng số 7.000 vụ khỏi bệnh không thể giải thích được trên bình diện y khoa, tuy nhiên chỉ có 70 trường hợp khỏi bệnh tại Lourdes được Giáo hội chính thức thừa nhận là phép lạ. Các phép lạ được công nhận ở Lộ Đức là một trong những nơi ít gây tranh cãi nhất trong thế giới Công giáo. Tất cả các bác sĩ phù hợp với chuyên môn có quyền truy cập không giới hạn vào các dữ liệu và các văn bản của Cục Y tế Lộ Đức bao gồm cả các trường hợp đã được công nhận chính thức là phép lạ và các trường hợp chưa. Các trường hợp khỏi bệnh đều được đưa ra thảo luận công khai và đưa lên các phương tiện truyền thông vào thời điểm đó.

Ngày 18 tháng 1 năm 1862, Giám mục Tarbes-Lourdes tuyên bố là sự lạ Bernadette đã được thị kiến là đúng sự thật, đáng tin:"Chúng tôi lấy căn cứ từ một ủy ban bao gồm các nhà trí thức, thánh thiện, có học vấn và các linh mục giàu kinh nghiệm đã tiến hành các câu hỏi với những đứa trẻ, nghiên cứu các sự kiện, kiểm tra tất cả mọi thứ và cân nhắc kỹ lưỡng các bằng chứng. Chúng tôi cũng đã liên lạc về giới khoa học, và sau cùng chúng tôi tin rằng các cuộc hiện ra là siêu nhiên và Thần Thánh. Quả thực, những gì Bernadette trông thấy là Đức Trinh Nữ. Niềm tin của chúng tôi dựa trên lời tường thuật của Bernadette, nhưng còn trên tất cả những điều đã xảy ra, không có cách lý giải nào khác hơn là sự can thiệp của Thiên Chúa".

Do các cuộc hiện ra chỉ với tư cách cá nhân nên người Công giáo không bắt buộc phải tin. Nhưng trong niềm tin Công giáo, như Bernadette đã nói: "Người ta phải có niềm tin và cầu nguyện, nước sẽ không nhiệm mầu nếu không có đức hạnh và không có lòng tin"

 

LINH ĐỊA LỘ ĐỨC

Linh địa Lộ Đức 51 hecta là nơi tọa lạc của nhiều Nhà thờ, Vương cung Thánh đường và các dịch vụ như nhà lưu trú, cửa hàng phục vụ… khách hành hương Công giáo khi đến đây.

 

 

Nhà thờ Crypt, đây là nhà thờ đầu tiên được xây dựng bởi Cha Abbé Peyramale và Đức Cha Laurence tại nơi mà Đức Mẹ đã hiện ra. Hoàn thành sớm nhất (vào năm 1866) nhưng Crypt lại là nhà thờ nhỏ nhất ở linh địa Lộ Đức.

 

 

Điểm nổi bật nhất khi hành hương đến Crypt chính là tượng đồng Thánh Phêrô rất lớn, đối diện là tượng Đức Giáo hoàng Piô X. Những con đường dọc theo hành lang và trung tâm được lát mảng đá hay còn được gọi là “voto” được quyên góp từ tín hữu khắp nơi.

 

Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội hay Nhà thờ Thượng nổi tiếng là điểm hành hương Công giáo thu hút nhiều khách nhất ở linh địa Lộ Đức.

 

 

Vương cung Thánh đường này được cung hiến vào năm 1876, tọa lạc trên đỉnh núi ngay phía sau hang Massabielle – nơi Đức Mẹ hiện ra 18 lần, và là công trình thứ 2 được xây dựng tại linh địa. Kiến trúc thiết kế theo phong cách Gothic bởi kiến trúc sư Hyppolyte Durand tạo nhiều ấn tượng cho khách tham quan. Nổi bật với những con đường được trải dài bằng mảng “voto” và biểu ngữ của nhiều quốc gia đã từng hành hương đến đây. Ngoài ra, vương cung thánh đường còn được trang trí bởi vô số các cửa kính màu mô tả các câu chuyện trong Kinh Thánh và các cửa sổ lấy ánh sáng được vẽ hình ảnh Đức Mẹ Maria.

Bên ngoài, tháp chuông nhà thờ nổi bật có chiều cao 70m, bên cạnh là tháp nhỏ hơn được hoàn thành vào năm 1908. Trên lối vào được khảm hình vẽ của Đức Giáo hoàng Piô IX người đã định tín điều về Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 1854.

 

 

Vương cung thánh đường Mân Côi, hoàn thành vào năm 1899, được cung hiến năm 1901, Vương cung Thánh đường Mân Côi hay còn được biết đến là Nhà Thờ Hạ. Kiến trúc Vương cung Thánh đường này chịu ảnh hưởng phong cách Byzantine. Trung tâm Thánh đường rộng lớn và có hình tròn, mái vòm bên trên. Phía bên ngoài của mái vòm vô cùng nổi bật với một cây Thánh Giá mạ vàng – là món quà của nước Ireland gửi đến vào năm 1924.

 

 

Khuôn viên Vương cung Thánh đường Mân Côi được tu sửa vào năm 2007 bao gồm cả những hình ảnh về “Mầu Nhiệm Năm Sự Sáng” do Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II công bố vào năm 2002. Khoảng không gian phía trước Vương cung Thánh đường được gọi là Quảng trường Mân Côi.

 

 

Vương cung Thánh đường Ngầm mang tên Đức Giáo hoàng Piô X là công trình lớn nhất và thu hút nhất trong số các Nhà thờ chính ở linh địa Lộ Đức. Công trình khổng lồ này được thiết kế bởi kiến trúc sư Pierre Vago vào hoàn tất các công đoạn xây dựng vào năm 1958, toàn bộ tòa Nhà thờ nằm hoàn toàn dưới lòng đất, có sức chứa 25.000 giáo dân.

 

 

Nhà thờ Thánh Bernadette được cung hiến năm 1988, xây dựng ngay trên khu đất đối diện với hang, tại nơi mà lần cuối cùng Thánh Bernadette đứng thị kiến Đức Mẹ. Kiến trúc Nhà thờ hiện đại, được thiết kế với nhiều cửa sổ nhằm mang lại ánh sáng tự nhiên vào trung tâm Nhà thờ. Toàn bộ công trình do kiến trúc sư Jean-Paul Felix thiết kế.

Nhà thờ còn có không gian rộng, có thể chứa hơn 5.000 giáo dân và 350 chỗ dành cho người khuyết tật. Bên cạnh đó còn có một Nhà phức hợp Hemicycle sử dụng để thờ phụng, phòng hội nghị, phòng dành cho các hoạt động khác.

 

 

Hang Đức Mẹ hiện ra - Grottes De L’Apparitton là khu vực hành hương Công giáo quan trong nhất ở linh địa Lộ Đức hay còn có tên gọi Grotte Massabielle. Nhiều người hành hương, hay thậm chí là những người ngoại đạo đến du lịch đều có cùng cảm giác được Đức Mẹ ban ơn khi đặt chân đến đây vì họ cảm nhận được bầu khí ấm áp và gần gũi.

Nguồn nước ở linh địa có ghi câu: “Nếu không tin thì không có phép lạ nào cả”, mang ý nghĩa rằng cần có đức tin, lòng thành tâm của mình mới có thể mang lại điều kỳ diệu. Có thể nói nơi đây không bao giờ ngớt bóng người. Rất nhiều tín hữu Công giáo đến để cầu nguyện hay tham dự một thánh lễ ngay trước hang Đức Mẹ hiện ra. Thánh lễ được cử hành nhiều lần trong ngày nhưng đặc biệt nhất là khi đêm xuống, lễ rước kiệu với ánh nến vô cùng lung linh, ấm cúng lúc 21 giờ tối.

Mọi khách hành hương sẽ cầm một cây nến màu trắng, xếp hàng và cùng nhau rước đi vòng quanh hang, họ thường dùng tay sẽ sờ vào vách đá, hứng vài giọt nước bên trong hang nhỏ xuống rồi đặt lên đầu mình. Một điều rất thú vị là trên tấm vách đá bên Thánh đường, nơi Đức Mẹ hiện ra có đặt những tấm bảng viết bằng rất nhiều ngôn ngữ khác nhau, trong đó có một bảng cuối cùng, hình tròn viết bằng tiếng Việt: “Con hãy đến uống và rửa ở suối này”.

Ở đây, ngay cạnh bờ sông có một hồ tắm gội dành cho các tín hữu Công giáo muốn được tắm với nguồn nước suối của Lộ Đức. Đầu nguồn suối, ngay dưới chân hang đá Đức Mẹ hiện ra, dòng nước chảy mạnh, trong lành, mát lạnh và uống rất ngon. Dường như không có ai phải e ngại, tất cả đều uống nước suối ở linh địa Lộ Đức, thậm chí có người còn múc nước suối mang về.

Suối tắm có hai bên, một bên dành cho nam và bên kia dành cho nữ. Tùy vào từng mùa trong năm, mỗi người muốn tắm phải chờ đến lượt, thông thường một lần chỉ được 3 người hay 5 người. Bước vào bên trong, mỗi người sẽ được một linh mục cùng hai người thiện nguyện giúp đỡ đọc kinh Cầu nguyện trước khi trầm mình xuống làn nước trong mát ấy. Vào mùa đông, nước suối rất lạnh, khoảng 8-9 độ C, tuy nhiên những người đến tắm vẫn cảm thấy vui vẻ và toại nguyện.

Ngoài ra còn có nhà nguyện Hòa Giải, Nhà nguyện Thánh Giuse, Cổng Thánh Michael…

Đền thánh Đức Mẹ Lộ Đức đã được các Giám mục Pháp nâng lên hàng Đền thánh quốc gia, qua việc ban hành các quy chế giáo luật có hiệu lực vào ngày 11/02/2021 vẫn niên nỉ với sứ vụ, dành cho tất cả mọi người và mang tầm quốc tế. Xác định các quy chế mới này, mục đích là để làm rõ chiều kích địa phương, quốc gia, quốc tế.

 

Bài: Sưu tầm & Biên tập